Google Glass: khi sớm trở thành sai

Trong giới công nghệ người ta hay nói “being early is the same as being wrong”, và điều này có thể phản ánh qua trường hợp của Google Glass. Khi ra mắt lần đầu vào năm 2012, Google Glass đã được giới công nghệ ca ngợi như một sản phẩm có thể thay đổi cách chúng ta sử dụng máy tính. Gần 13 năm sau, Google Glass đã thất bại và kính thông minh cũng chưa thay thế điện thoại thông minh như dự đoán, vậy nguyên do từ đâu mà chiếc kính này thất bại?

1. Quá sớm khi công nghệ chưa trưởng thành

Google Glass đã ra mắt khi mà công nghệ kính thông chưa đủ phát triển để hỗ trợ một sản phẩm như vậy. Vấn đề đầu tiên, khả năng xử lý của thiết bị giới hạn, không đủ để chạy các ứng dụng phức tạp hay đáp ứng nhu cầu của người dùng. Pin của chiếc kính này cũng không thực sự ấn tượng, chỉ khoảng 3-5 tiếng (theo Techradar). Cách thức điều khiển của Google Glass cũng không thân thiện, đòi hỏi người dùng phải học cách sử dụng mới, và màn hình hiển thị thì khó nhìn, đặc biệt là trong điều kiện ánh sáng mạnh. Tuy Google không được trang bị trợ lý AI như những chiếc kính thông minh đang được bán ra trong năm 2025, chiếc kính này hỗ trợ ra lệnh bằng giọng nói như một cách thức điều khiển kính, tuy nhiên ở thời điểm đó tính năng này được báo cáo là không đáng tin cậy.

2. Khi khác biệt là trở ngại

Có mặt từ những năm 50 của thế kỷ trước, Ray-Ban Wayfarers đã trở thành một biểu tượng và có ảnh hưởng tới thiết kế kính mắt tới tận bây giờ | Ảnh: Insidehook

Trong thế giới thời trang, kính mắt có thể coi là một phụ kiện thời trang có thiết kế bảo thủ nhất, khi mà có những mẫu ra đời từ những năm 50 của thế kỷ trước hiện vẫn đang được ưa chuộng như Ray-Ban Wayfarers hay Aviator. Và Google làm gì? họ bước vào thị trường này bằng một thiết kế khác lạ, có lẽ là quá “tương lai” để người dùng chấp nhận. Sự khác biệt này không chỉ là về thẩm mỹ mà còn làm người dùng cảm thấy khó chịu, đặc biệt khi họ dễ dàng bị chú ý vì đeo một thiết bị kỳ lạ.

3. Giá cao và không có use-case thuyết phục

Khác biệt về thiết kế không phải luôn sai, thất bại của Google Glass nằm ở chỗ nó không có những ứng dụng thuyết phục người dùng bỏ tận 1500 USD ra để mua. Tai nghe không dây Apple AirPods khi ra đời cũng có thiết kế gây nhiều tranh cãi, nhưng cách chiếc tai nghe này đơn giản hoá việc nghe nhạc đã thay đổi thói quen của hàng triệu người dùng, dần dà khiến thiết kế lạ lùng đó trở nên bình thường. Về phần Google Glass, chiếc kính này đã không tìm được một killer app (ứng dụng đột phá) để người dùng cảm thấy cần thiết phải sở hữu. Mặc dù có nhiều tính năng như chụp ảnh, ghi âm, hiển thị thông báo, nhưng không có một use-case nào thực sự nổi bật hay mang lại giá trị đủ lớn để người dùng bỏ qua những nhược điểm của chiếc kính thông minh này.

4. Quá tập trung vào việc trở thành một sản phẩm công nghệ

Google Glass đã được thiết kế như một thiết bị công nghệ hơn là một chiếc kính có thể đeo cả ngày, và đây có lẽ là bài học mà các hãng kính thông minh đi sau đã và đang rút ra. Dù kính có thông minh đến mấy, phần lớn thời gian người dùng sẽ chỉ dùng kính như một phụ kiện thời trang, tránh nắng hay để nhìn rõ xa/gần. Thay vì cung cấp một giải pháp đơn giản, nhẹ nhàng và thoải mái như các loại kính mắt thông thường, Google Glass tập trung nhiều vào chức năng công nghệ. Điều này khiến nó trở nên quá cồng kềnh và không thực sự phù hợp với cuộc sống hàng ngày của người dùng.

Meta biết rõ điều này hơn ai hết nên họ đã hợp tác với EssilorLuxottica để phát triển kính thông minh từ những mẫu kính Ray-Ban vốn đã được ưa chuộng trên toàn thế giới. Trải qua 2 thế hệ, bước đi của Meta đã và đang thuyết phục được thị trường với những mẫu kính thông minh với kiểu dáng truyền thống…

5. Mối lo về quyền riêng tư

Một trong những lý do lớn nhất dẫn đến sự phản đối của cộng đồng đối với Google Glass là các mối lo ngại về quyền riêng tư. Với khả năng ghi hình và ghi âm mà không cần thao tác rõ ràng, Google Glass đã gây ra lo ngại về việc người dùng có thể lén lút ghi lại hình ảnh và âm thanh của người khác mà không có sự đồng ý. Nhiều nơi công cộng như quán bar, nhà hàng, và thậm chí là các sòng bạc đã cấm sử dụng thiết bị này, vì họ lo ngại về việc bị ghi lại mà không biết. Sự thiếu minh bạch về khi nào thiết bị đang hoạt động và việc thiếu các biện pháp bảo vệ quyền riêng tư đã khiến Google Glass mất điểm nghiêm trọng trong mắt công chúng.

Lời kết

Google Glass là một ví dụ điển hình về việc một sản phẩm công nghệ tiên phong có thể thất bại nếu không đáp ứng được nhu cầu hiện tại của người dùng. Dù có ý tưởng táo bạo và tiềm năng lớn, nhưng vì nhiều lý do từ công nghệ, thiết kế, đến việc thiếu hụt một use-case rõ ràng, Google Glass đã không thể tạo được dấu ấn như mong đợi. Bài học từ Google Glass là một lời nhắc nhở quan trọng cho các nhà phát triển rằng, đôi khi, đi trước thời đại cũng có thể là một sai lầm lớn nếu không được thực hiện đúng cách.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back To Top